Thursday 20 December 2007

Nhac pham Ruou Sau / Bai Tho Em Bé An Xin


EM BÉ ĂN XIN
Em bé ơi! manh quần Em rách nát?

Bao tuổi đời sớm gặp cảnh xác xơ?
Nhà Em đâu sao mãi đứng chực chờ?
Chén phở cặn người ta ăn bỏ lại.
Em rung rung đưa hai tay bưng lấy,

Mắt nhìn ai? Em đang sợ những gì?
Em cũng là những trẻ thiếu nhi,
Sao họ khơng giúp Em quàng khăn đỏ!
Lại khiến Em phải đầu đường xó chợ !!!

Hay Em là con của lính miền nam ???
Cha của Em trong tù ngục Xa Xăm !
Nơi mà họ bảo là trường cải tạo.
Mẹ của Em có còn lo cơm áo?

Hay thăm chồng mà thân xác gởi rừng sâu?
Hoặc bà đang gặp cảnh ngộ cơ cầu,
Trên giường bệnh chờ ngày rời dương thế.
Nhìn thấy Em khiến tôi rơi dòng lệ,

Phận đói nghèo đâu phải lỗi do Em!
Giữa dòng đời nào có được trái tim,
Giữa xả hội của loài ma quỷ mới.
Tôi cúi xuống xin vì Em mà tạ lỗi.

Đất nước này nào phải chỉ riêng tôi.
Tôi vẫn xin xám hối nửa cuộc đời,
Quê Hương đó thôi rồi một thế hệ.
“ Nỗi Lòng Viễn Xứ “
Vân Trang


A little Girl Begs In street


My poor little girl! How torn your dress thou’rt wearing !
How old’re thee to meet with this worst situation?
Where’ s your house ? why’ d be here fore awaiting
A bowl of soup leavings given up by unknown person?

Your hands’re shakingly carrying it as prudently taking care of!
Who thou’rt looking at? What thou’rt afraid of ?
Thou’rt also youth like other peers with the same age,
Why didn’t they give thee the Red Tie as their hepl

To save thee out of such a mediocre living at the sidewalk?
Or thou’rt from a family of “Puppet troops”
Thy father’s now in the jail for years of labor works!
Where they called a school for reeducating campus

Is they mother still taking care of foods and clothes?
Or she’s gone by poisonous wilas on the way
visiting thy Father in the forest ?
Or she’s still alive through tribulations & woes
That’d be for climical therapy & waiting for death?

When seeing thee I couldn’t stop shedñing tears
It’s not thy fautl to go poor wiith fear!
There’s nothing in this life that the heart can win over
In the miñle of such a society of new ghost & monsters!

I’m resultingly stooping to ask thee for excuse
This country isn’t belong to me only
However, I still repent for my past of halflife
And this Homeland’s counted as a past generation of mine!

Enghish Version by Ngo Da Thien
From Orginal Peom in Vietnamese by VÂN TRANG



Nhac Pham

Sunday 16 December 2007

Thảm Cảnh Gần Cầu Lê Bắc


Đưa hai cô gái ra đường,
Tôi nhìn những cảnh tang thương nát lòng.
Gần cầu Lê Bắc con sông,
Dọc đường máu đổ loang dòng huyết thâm.
Nhìn đâu cũng cảnh thương tâm,
Lời thơ khó thể tả chân rõ ràng.
Trên cao quà quạ kêu vang,
Ơ dưới người chết ngổn ngang bốc mùi,
Nhìn đâu cũng thấy lạnh người,
Nhìn đâu cũng thấy rã rời tay chân.
Chắc đây là cặp vợ chồng,
Người thì banh ruột, người không thấy đầu.
Còn kia là bác nhà giàu,
Chết còn nắm chặt hồ bao đầy vàng.
Kìa là đứa trẻ bên đàng,
Nằm bên xác Mẹ, ôm dòng sữa khô.
Đây là cô gái lõa lồ,
Văng ngang khúc ngực ruột nhô, gan lòi,
Mảnh quần bung rách tả tơi.
Con người còn ác hơn loài hổ mang!
Tôi nghe trong dạ xốn xang,
Như kim chích mũi, mắt tràn lệ tuôn.
“ Nỗi Lòng Viễn Xứ ”
Vân Trang

KHÓC BẠN (Trung úy Vương)





Chiều buồn di tản, chồn chân bước,
Cờ rũ, nón treo, súng ngược đầu.
Anh ở lại buồn, không giã biệt
Tôi về, mang nặng trái tim đau.

Bao năm lăn lóc mờ chinh chiến,
Máu đổ thân trai đã mấy lần.
Chiến cuộc bây giờ đang vận chuyển,
Sao đành vội bỏ tuổi thanh xuân.

Trên đường di tản nào ai biết?
Súng đạn quân thù sao bất tri!!!
Bè bạn bao năm tình thắm thiết,
Đâu ngờ tôi phải khóc chia ly!!!

Giờ đây anh đã thành thiên cổ !
Lòng đất Cao nguyên ôm bước chân.
Ai đã an bài hay định số ?
Cho anh trả hết nợ hồng trần.

Rưng rưng lệ đổ tôi từ biệt
Anh ở lại đây an xác thân,
Chưa chắc anh buồn trong cõi chết,
Hơn người còn lại chốn dương trần!!!
“Nỗi Lòng Viễn Xứ”
Vân Trang

Đôi Dòng Về Tỉnh Lộ Máu



Kính thưa quý vị.
Những trang sau đây là 9 bài thơ tôi đã viết, để diễn tả những thảm cảnh, tôi chứng kiến trên Tỉnh Lộ 7 (người ta còn gọi là Tỉnh Lộ Máu). Đây chỉ là một phần trên con đường dài hơn 120 cây số, từ Phú Bổn xuống Tuy Hoà. Trong thời gian di tản, tôi đi trong rừng nhiều hơn, trừ những lúc quá đói, chúng tôi mới lần ra đường để tìm thức ăn nên gặp những cảnh thực trên đường.
Mặc dầu tôi đã đọc và nhìn những hình ảnh trên báo chí, tivi về các vụ thảm sát Tết Mậu Thân, Đại Lộ Kinh Hoàng, Mùa Hè Đỏ Lửa. Nhưng những cảnh tượng tôi nhìn thấy là thực tế, nó đã ám ảnh tôi suốt bảy năm dài trong lao tùø cải tạo. Với niềm trăn trở suy tư, tôi đọc nhiễu tập sách về C.S. Như:“Chủ nghiã C.S, Đề Cương của Đảng C.S Đông Dương, Đạo Đức Hồ Chí Minh...”Tóm lại tôi cho nó chỉ là lối lý luận xảo nguyệt, diêm dúa để chê đậy cho những người Cộng Sản khát máu, cuồng vọng, mất nhân tính. Vì thực tế bao nhiêu người dân vô tội (kể cả các cụ già và trẻ con) bị sát hại trên Tỉnh Lộ Máu, họ đều mặc thường phục không có vẽ gì là quân nhân, thế mà họ vẫn xiết cò tàn sát Đúng la dòng máu lạnh Tam Vô ...
Làm sao tôi quên được những cảnh tượng đau thương, họ chết chồng chất lên nhau trong những chiếc xe đò đầy máu và thịt nhầy nhụa, hay những xác bị cháy xạm đen, co quắp lại không còn hình thể của con người...
Tôi phải nói, dầu đã có nhiều người phơi bày trước tôi, tôi cũng không thể yên lặng được, dù thời thế khó khăn gần 25 năm mới xuất bản được tập thơ nầy. Tuy rằng trễ, nó cũng giúp tôi vơi bớt được nỗi lòng mà tôi nặng mang.
“ Nỗi Lòng Viễn Xứ
Vân Trang

Tượng Đài người Lính Mỹ và người lính V.N.C.H.




Anh vẫn đẹp như ngày nào trên đất Mẹ,
Dáng oai hùng như vách đá Trường Sơn.
Gương mặt kia còn phản phất nét câm hờn,
Tay xếp súng nhưng tim bừng lửa cháy.

Hai mươi lăm năm nét thù còn đọng lại,
Đôi mắt buồn như đã khóc Quê Hương,
Vì bao năm đất Mẹ lắm đoạn trường,
Từ khi có cờ sao vương máu đỏ.

Tôi vẫn thấy trong anh còn hiện rõ,
Nét tủi hờn vì tráo trở đổi thay,
Giận những ai đã muối mặt xếp bày,
Đưa đất nước đi vào cơn bức tử.

Nỗi đau xót khi lâm vào thế sự,
Vẫn bền lòng anh nắm vững niềm tin,
Chính nghiã ta sẽ thắng được bạo tàn,
Anh vẫn sống kiên gan và tranh đấu.

Đã bao năm miệt mài trong giông bão
Một phần tư thế kỷ đã chứng minh,
Chính nghiã anh là nặng một chữ tình,
Tình Dân Tộc, tình Quê Hương Tổ Quốc.

Sự thật đã phơi bày ai xấu tốt,
Nay vinh danh là lẽ tất nhiên,
Tượng đài kia có cởi được ưu phiền!
Hay vẫn bước triền miên trên đất khách!!!
“Nỗi Lòng Viễn Xứ”
Vân Trang




Statuary ofAmerican & Vietnamese Warriors
**********
You’re both elegant as formerly in your Motherland
Your heroic postures remain ever upright like Mountains in Chain
Your physiognomies keep on bearing some spirits hovering around as
Your hand peacfully holding the weapons but yoour hearts ’re in a blaze !

More thaan two decades passed but hostile features standing too long,
And your sorrowful eyes with shedding tears you’re sharing for backing home
Because Motherland’s undergone through woes tribulations for decades
Since this land’sbeen covered with plag off yellow star& blood-reed

I still look at wha you both’ve engrained inside that’s appearing net
some features of shame provided by some one with his tricky language
Angering those who arranged the main cause that goes wrongly set
That created the Turmoil of Black april 1975 with a shame ful damage

Both of you’re in a painful spirit, a mutually defeated one
But your inside feelings remain invincible with your self-cofidence
Always main cause goes against wicked idealesm to win
And your names ever rest engrained in people’s mind to keep on struggling

As you’ve timelessly fought in the passed years too long & constant
More than a quarter of century as evidences ,
Your main cause’d be slant to your love & affections
These fondnesses you share for people, Homelands and Nations

The true facts ‘re now exposed as distinction of good from bad whoever’s ?
Today both of you’re nowhonored as a reality in this sacred atmosphere
If the Statuary enables to annihilate any chagrin from us !
Please keep on permanently appearing throughout this land like thus!
English Version by Ngo Da Thien
From Original Poem in Vietnamese by
Van Trang

Nhac Pham Loi Nhac buon/ Bai tho Ao Tran Chua Phai


Áo trận giờ đây màu chửa bạc...
Sao người lính chiến bước phiêu du.
Đại Dương sóng cuộn dòng ngăn cách,
Ai đó còn nghe tiếng gọi thù?

Gãy gánh nửa đường chân chửa mỏi,
Nước non ngàn dậm bước chinh nhân.
Non sông từ đó ai gây tội?
Ngâm khúc Yên Ba nuốt tủi hờn!

Ai bẻ súng gươm quăn kiếm báo?
Khiến thù tràn ngập khắp Non Sông!
Quê Hương tang tóc thây dầm máu!
Mẹ Việt Nam ơi máu lệ dòng!
Nửa đời xoay chuyển cơn dâu bể,
Từ lúc Quê Hương nát cả hồn.
Hai mốt năm dài vương mắt lệ,
Nghe hồn vất vưởng bước cô đơn.

Nhớ nước đau lòng câu thệ quyết,
Thương thân tiếng vọng Vũ Đình Trường,
Trước bàn Tổ Quốc câu trung liệt,
Thề giữ non sông đổi máu xương.

“Tuý ngọa sa trường quân mạc vấn,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
Dậm trường sông núi hồn chinh chiến,
Vạn bước sơn khê Tổ Quốc ơi!
“Nỗi Lòng Viễn Xứ”
Vân Trang




Loi Nhac Buon

NGƯỜI LÍNH GIÀ

(Kính tặng các chiến hữu H.O
còn tâm huyết với Quê hương)

Dù vạn bước trên nẻo đường ly xứ.
Tôi vẫn tin Anh chưa bỏ súng gươm,
Tôi vẫn tin Anh chưa quên bạn hữu,
Bị vùi chôn trong chiến cuộc uất hờn.

Tôi vẫn biết trong Anh còn khối hận,
Nợ tang bồng vay trả vẫn chưa xong.
Tôi vẫn biết trong Anh còn u uẩn,
Tình non sông canh cánh nặng bên lòng.

Cơn nứơc biến ai chuyển xoay thế cuộc,
Trở mặt quay lưng như lật lá bài.
Súng đạn trên vai chưa tròn nguyện ước,
Anh lính gìa đành ôm hận chua cay.

Mang uất hận bước chân vào tù tội,
Thương Quê hương bao cay đắng ngập lòng,
Anh vẫn nhớ thủơ vàng son vang dội,
Đã tung hoành mong trả nợ Non sông.

Nào ai ngỡ thế thời nhiều biến đổi,
Cõi phù sinh tráo trở lắm thay lòng.
Anh lính già bước qua vòng tù tội,
Nhưng phải đành mang số kiếp lưu vong.

Rồi bao năm ẩn thân đời tỵ nạn,
Nén niềm đau tủi hận sống tha phương.
Anh vẫn mong ngọn Lửa Thiêng rực sáng,
Nguyện góp phần xây dựng lại Quê hương.
“Nỗi Lòng Viễn Xứ”
Vân Trang

KHÓC CHA




(Thất lộc 18-4-95 tại Bạc Liêu)
Đêm nay con thắp nén hương,
Hồn Cha siêu thóat hay vương mây ngàn.
Khói nhang vờn mảnh khăn tang,
Hai đèn bạch lạp tỏa quang mập mờ.

Trăng xuyên khe lá đường tơ.
Cành khua xào xạc, con ngờ là Cha.
Cúi đầu khấn lạy thiết tha,
Cũng vì vận nước phong ba đổi dời,

Cha con chia cách đôi nơi,
Tha phương đất khách, quê người gởi thân.
Đời con bao nỗi phong trần,
Để Cha phải chịu mọi phần hẩm hiu.

Những ngày bóng xế về chiều,
Chết không nhắm mắt chưa tiêu được sầu.
Hay tin dòng lệ tuôn trào,
Muốn về vuốt mặt và hầu bên Cha.

Nhưng đời còn lắm phong ba,
Bao nhiêu cách trở đường xa dặm hồng.
Nửa vòng Trái Đất tây đông,
Xin Cha chứng dám nỗi lòng cho con.

Mang thân nợ nước chưa tròn,
Con chưa bao đáp mong còn được chi.
Bây giờ đạo hiếu sinh ly,
Con nào biết nói những gì với Cha.
Cúi đầu xin được thứ tha.
Xưa nay trung hiếu khó mà vẹn đôi.
“Nỗi Lòng Viễn Xứ ”
Vân Trang

NỖI LÒNG QUÊ HƯƠNG


Trong giấc ngủ ta mơ về đất mẹ,
Chập chờn nghe những tiếng khóc bên tai,
Của trẻ thơ hay của kẻ lạc loài,
Người khốn khổ, kẻ tù đày ngục tối.

Việt Nam ơi! bao năm dài biến đổi,
Bao năm dài hằng vạn nỗi truân chuyên.
Tám mươi năm giặc Pháp nắm trọn quyền,
Đưa Dân tộc vào kỷ nguyên nô lệ.

Khiến bao kẻ cúi đầu làm cẩu trệ,
Nhưng dân ta thề chết chống xăm lăng.
Lịch sử ta văn hiến bốn ngàn năm,
Xây nước Việt bằng máu xương, nước mắt.

Ta không thể cúi đầu trước lũ giặc,
Noi gương xưa kẻ trước tiếp người sau,
Bảo vệ Quê hương bằng xương trắng máu đào,
Dù gục ngã không bao giờ nản chí.

Thời thế mới tạo nên nguồn sinh khí.
Thực dân tàn trước hào khí dân ta,
Độc lâp, Tự do đến với mọi nhà,
Trên đất nước sạch bóng ma xăm lược.

Nhưng Dân tộc chưa thể nào tiến bước,
Vì bạo quyền dùng sách luợc vô nhân,
Chủ nghiã ngọai lai chia rẽ muôn dân,
Gây mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp.

Bần cùng hóa, vô thần, vô Tổ quốc,
Gây đau thương dân tộc lại lầm than.
Để ngăn chận Côïng Sản chiếm miền Nam,
Để bảo vệ Tự do và nhân bản,

Cuộc đấu tranh của Quốc Gia ngời sáng,
Vì Việt Nam vì Tổ Quốc Quê hương,
Hai mươi năm chiến cuộc đẫm máu xương,
Sao còn mãi hồn vương trong bóng tối.

Bao đau thương vẫn chưa khai mở lối?
Kẻ bạo quyền vẫn mang tội vong nô.
Bao đau thương chôn chặt dưới hoang mồ,
Bao nguyện ước mang theo đời vong quốc.

Hỡi lịch sử oai hùng của đất nước,
Hỡi hồn thiêng sông núi bốn ngàn năm,
Hãy soi sáng cho Dân tộc Việt Nam,
Cho Tổ quốc sớm vinh quang trên Thế giới.

“ Nỗi Lòng Viễn Xứ”
Vân Trang

NỖI LÒNG VIỄN XỨ



Ly cà phê đắng môi người viễn xứ.
Điếu thuốc thơm xót dạ kẻ ly hương.
Bao thu rồi lòng hận mãi còn vương,
Rưng rưng lệ tủi hờn đời vong quốc.

Đêm đêm buồn xót xa lòng thổn thức,
Ôm cô đơn ta vẫn bước độc hành,
Quê hương ơi! lúa vẫn trổ đồng xanh,
Sao ta mãi vấn vương sầu vạn cổ.

Ta vẫn biết cuộc đời là bể khổ,
Thân vẫn còn mang mãi kiếp trầm luân.
Đường ta đi sỏi đá bước gian truân,
Chưa vui hưởng được ngày Xuân đất khách.

Đã bao năm ta lê chân cúi mặt,
Thương Quê hương Tổ quốc cảnh lầm than,
Thương bạn bè trong kiếp sống cơ hàn,
Thương tử sĩ, nghiã trang không yên giấc.

Bao nhiêu người khổ đau trong ngục thất?!
Bao nhiêu người chiếu đất với màn trời,
Bao trẻ thơ với kiếp sống nổi trôi,
Bao người đói trơ xương vì bán máu.

Việt Nam ơi! nào có ai hiểu thấu!?
Còn biết bao chuyện sầu thảm phong trần.
Xin đất trời ban độ lượng hồng ân,
Cho Dân tộc bớt lầm than thống khổ!...
“ Nỗi Lòng Viễn Xứ”
Vân Trang

Nhac Pham Sai Gon Goi Nho / Tho Sai Gon Oi Gia Biet




Sài Gòn trời đã vào Thu,
Phố phường yên lặng sương mù còn vương.
Công viên hoa thoảng mùi hương,
Hai hàng me đứng bên đường tiễn chân.

Đây con đường cũ bao lần
Ta đi qua lại phân vân não nề,
Đã bao nhiêu nỗi ê chề,
Đã bao nhiêu chuyện tình quê đổi dời.

Bây giờ thay chủ đổi ngôi,
Bạch Đằng dậy sóng, triệu người lưu vong.
Chia ly ngày đợi, đêm mong
Người đi tan nát cõi lòng tha phương.

Còn đâu hình bóng Quê hương,
Còn đâu tiếng nói mến thương hữu tình.
Bến Thành một sáng bình minh,
Người người tấp nập đượm tình thân quen.

Tháng tư vận nước đêm đen,
Ba mươi quốc hận một phen đổi đời.
Ra đi góc biển chân trời,
Chia ly đôi ngã người ơi có buồn!?

Thôi đành giã biệt Saì Gòn!
Thôi đành giã biệt nước non quê nhà!
Thôi đành giã biệt Mẹ Cha!
Thôi đành giã biệt muôn nhà Việt Nam!

“ Nỗi Lòng Viễn Xứ “
Vân Trang


Good Bye SaiGon !( old Capital of south V.N )
***********

Saigon was covered with autum sky
Streets seemed coming to a standstill with hoar-frost
From public parks blossoms fragrance’s sent to smell nice
Two raws of tamarind-trees on both sides of streets see me off !

Hither, one of old roads for many a time
I’ve passed on it to & fro with plaintive hesitations
With lots of things that’re worn out by shame
And several matters of the heart before the Turmoil of Nation

Hither-to, such a big change ‘d be for leadership of Communism
Bach Dang Port goes madly choppy, millions in exile
And separations’re to await, my hope’s for days & nights
The goers felt broken heart with their evacuations

As no more’d be seen again. they think, their Homland’s familiar features !
No more their language so well attached with love & affections !
BenThanh Market, each time at dawn
Buyers & salespeople enthusiastically rushed there so crowded sooner

Black April was the Turmoil of our Nation
The Thirtieth Day was our shameful Day as life change
The goers became exiled for exodus crossing oceans
Vietnameses began, therefore, their tearful separaations !

Good Bye Saigon as destiny to be set !
Good Bye my cheerful & lovely Homeland !
Good Bye Mom & Dad ! and all of my compatriotes !
All of those who’re due to remain in this Land !


Enghish Version by Ngo Da Thien
From Original Poem in Vietnamese by
VAÂN TRANG

Dòng nước mắt... KHÓC QUÊ HƯƠNG




Hai mươi năm rồi bao biến đổi.
Hơn hai mươi năm chỉ khóc chẳng cười
nhà tan, cửa nát,
muôn người phân ly.
Luân thường đảo lộn,
đạo lý suy đồi,
giai cấp thay đổi
bao nỗi oan khiên,
kẻ chết trong tù,
người trôi trên biển,
thây nằm vất vưởng khắp cả mọi miền.
Lớp ở ngọai biên lớp trong rừng núi,
kẻ sống hấp hối đất mẹ quê cha,

kẻ phải bôn ba chạy ra hải ngoại,
sống đời còn lại để nhớ để thương.
Kẻ ở Quê hương sầu khô khoé mắt,
ruộng vườn phủi sạch, nhà cửa nát tan,
sống đời lang thang, tương lai u ám,
trong đám vong nhân đội lớp thiên thần.
Bên ngoài nói chuyện nghĩa nhân,
bên trong gươm giáo giết lần dân đen.
Phủ đầu chủ thuyết Lê nin,
triệt tiêu Dân tộc,
xóa ranh Tổ quốc,
hủy diệt Nhân quyền,
xiềng xích, lao tù,
bóp nghẹt bao tử.
Những người bám trụ cờ sao,
theo chân đảng Cộng sang giàu,
ăn trên, ngồi trước, mâm cao, đầy tiền.

Buồn thay thế sự đảo điên.
Trời cao nỡ bắt tội người Việt Nam.
Phải chăng hậu vận Đồ Bàn?
Lật trang sử cũ bẽ bàng xót xa!

Thi Tập “ Nỗi Lòng Viễn Xứ”
Vân Trang

ĐÔI DÒNG TÂM SỰ



Kính thưa Quý Độc Giả
Kính thưa Quý Văn Thi Bạn Hữu.
Tôi sinh ra và lớn lên ở xứ muối mặn, đất phèn cuối miền đất nước. Nói đến quê tôi, Quí vị sẽ nhớ hai câu thơ dí dỏm:
“Bạc Liêu nước chảy lờ đờ,
Dưới sông cá chốt, trên bờ Tiều Châu.
Tôi xin mạn phép bổ túc thêm hai câu:
Ruộng vàng, biển bạc, sông sâu,
Cá tôm, muối trắng, lúa mầøu phì nhiêu.
Ruộng lúa cò bay thẳng cánh,ruộng muối nhìn xa thăm thẳm, sông biển cá lội đầy đàn. Nhưng những tài nguyên phì nhiêu đó lại tập trung trong tay một số phú hào người Hoa và những người có chức việc. Trái lại đa số quần chúng vẫn sống nghèo nàn khốn khổ, quanh năm làm lụng vất vả, quần xoăn khỏi gối lấm chân phèn. Phải chăng vì họ quá hiền lành, chất phát và trung hậu!...
Trong bối cảnh nghèo nàn và cuộc sống khó khăn, xung quanh tôi toàn là một màu đen, mỗi ngày mọi người phải xoay quanh cái khó và cái khổ...Tôi lớn lên trong tình thương của người nghèo, tôi đã học được từ họ những tình cảm chân thành và mộc mạc...
Thời thế nhiểu nhương, non sông ly loạn, tôi cũng như mọi người phải thi hành nghiã vụ.Trong tuổi trai thế hệ, mang tâm trạng chung: hoài bão phải làm gì để góp phần bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc ngày càng tốt đẹp hơn .
Trên bước đường phục vụ đất nước, một lần đổ máu trên chiến trường và nhiều lần đổ lệ khi thấy banï mình nằm xuống. Có lần tôi không sao ngăn được dòng nước mắt ràn rụa khi thấy đứa bé thơ bò quanh xác mẹ, nằm trên vũng máu khô để tìm nguồn sữa cạn...
Thời thế đổi thay, lòng người tráo trở, âu cũng là vận nước, tôi chỉ là chiếc lá con trôi theo dòng thác lũ. Từ những bối cảnh do ngày 30-4-75 đến bảy năm dài lao tù Cộng Sản, tôi càng lắng suy tư, càng thấy rõ con người và chế độ của Cộng Sản, tôi càng thấy mình có tội với đồng bào, với bạn bè chiến hữu đã nằm xuống .
Vì chính nghiã Quốc Gia, vi niềm hối hận và mối sầu tuyệt vọng với tuổi tù và tuổi đời chồng chất, tôi chẳng làm được gì! Chỉ mong dùng ngòi bút để ghi lại những gì tôi đã chứng kiến, những gì trong một xã hội nhân ái và dân chủ mà tôi đã sống.
Thời gian lạnh lùng bao trùm quanh kiếp tha hương, với nỗi lòng viễn xứ. Bao đêm dài, tôi không sao ngăn được dòng nước mắt, khi viết bài thơ cho Cố Hương. Tôi cố gắng ghi những suy tư ấp ủ, những thao thức canh thâu vì những bối cảnh phũ phàng mà tôi đã trải qua và những cảm xúc vui buồn trong thế thời hiện tại...
Tôi không dám nghĩ rằng: ngòi bút của tôi là phương tiện đấu tranh với đối phương, tôi chỉ mong rằng, nó là chất súc tác để chia xẽ “ Nỗi Lòng Quê Hương ” với những người tha phương viễn xứ.

Trân Trọng Kính Chào .
VÂN TRANG
Thung Lũng Cờ Vàng (SanJose) 2000